tag:blogger.com,1999:blog-5264132947395530770.post6181449425602330780..comments2023-04-17T04:54:03.036-07:00Comments on lý con cóc: Vô ấn (5)Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/13764769198147979991noreply@blogger.comBlogger1125tag:blogger.com,1999:blog-5264132947395530770.post-40271148921273638202016-02-13T08:54:17.294-08:002016-02-13T08:54:17.294-08:00Tâm chính là thức nên gọi tâm thức, ý chính là tâm...Tâm chính là thức nên gọi tâm thức, ý chính là tâm nên gọi tâm ý, …<br />Khi tâm tịch (7 thức không vin theo cảnh tiền trần) thì 7 thức không dấu vết (chẳng gọi là diệt). Nếu diệt thì sao Thế tôn suốt 49 năm thuyết trên 300 hội.<br />Khi tâm vọng, thì nơi mắt biết (giác – biết), giác biết là diệu dụng bị che lấp bởi nhãn thức: đẹp xấu, xa gần… Nên nói đến nhãn tức là nói khi mê. Nói đến tâm tức là ngộ.<br />Khi tâm vọng, thì nghe biết, biết là diệu dụng của tâm (qua diệu dụng mới rõ là phật tâm, chẳng đồng vô tri kia) bị che lấp bởi vọng: thăng trầm, êm tai, chói tai, xa gần …<br />Khi tâm tịch, thì 7 thức không vin theo cảnh mà loạn, đã không loạn thì 7 thức thể cũng không, 7 tức khi ấy không phải 7 mà gọi là 1, đó chính là tâm.<br />Nhưng phải hiểu, 7 hay 1 là so lường của thức ý, chứ tâm vốn tự không tịch, không tướng không sanh không diệt không nhiễm không tịnh thì tối kỵ gọi là 1 (miễm cưỡng dùng từ). Khi ấy gọi là bảy hòa hợp mà thật ra không có hòa hợp gì cả, thể tự không tịch. Không thấy, không nghe . . . không nghĩ tưởng.<br />Khi chết, 7 thức không theo thân mà diệt, vì nơi Như lai tàng do tâm vọng tưởng mà bị che lấp nên thành Thức lưu chú. Thức lưu chú này nhiếp thọ đủ 7 thức.<br />7 thức không sanh không diệt. Một ví dụ như sau:<br />Tâm như nguồn sáng (như đèn, lửa), ánh sáng tỏa ra (7 thức).<br />Có nguồn sáng tức có ánh sáng, do thức ý phân biệt vọng khởi gọi nguồn là gốc (thể), ánh sáng là thân lá (dụng). Liền nơi một chơn (miễn cưỡng gọi là một) lại phân làm 2, nguồn và ánh sáng.<br />Nếu đã không có ánh sáng dứt khoát không có nguồn, vậy sao gọi là 2.<br />Nếu đã nguồn tất có ánh sáng nhưng do thấy tướng là hai (lửa – ánh sáng) nên không gọi một.<br />Bình đẳng chính là nghĩa này (không một cũng không hai).<br />Câu hỏi vốn từ “thức ý” sanh. Thảy thuộc về mê. Nếu có câu giảng giải rõ ràng thì vẫn chỉ có thức ý, đem mê đắp vào mê vẫn chỉ là ngôn thuyết.<br />Phải chánh tín nơi tâm mình, khi mê gọi là trí, khi ngộ gọi là trí huệ. Trí huệ chính là Phật nên gọi Trí Huệ Phật. Khi tự không tịch thì miễn cưỡng gọi là thật (thật trí), khi chiếu (đối cảnh) trả lời cho mọi người thì Phật tổ chỉ dạy “dứt lấy đường tâm hành, bặt dứt ngôn thuyết”. Lời dạy đó gọi là quyền trí. Quyền và thật không một cũng chẳng hai.<br />Ngàn kinh cũng chỉ ngăn chúng sanh đừng khởi vọng, vọng do thức ý nương theo trần mà sanh, chỉ vì người quen làm sao với “suy nghĩ – học – hiểu” tự làm mê tâm mình, nên Thế tôn phương tiện dựng lập ba thừa và giáo điển.<br />Không tự ngay đó thừa nhận, thì phương tiện từng ngày một tu tập bỏ bớt thói quen học – hiểu – hành. Đó gọi là tiệm giáo, tu lần lần.<br />Còn nếu ngay đó nơi cửa Tổ một đường thấu thoát, một gậy một câu tự dứt thì gọi là đốn giáo.<br />Nhưng thật ra tiệm đốn không hai vì chỉ là phương tiện. Đã nương phương tiện tức là tiệm, nơi ngộ gọi là đốn. Tiệm đốn đều dứt (thức ý), phương tiện đã không vì chẳng có tâm học, chẳng có tâm hiểu, chẳng có tâm cầu, chẳng khởi tưởng, chẳng hôn trầm… mới là Phật đạo.<br />Nếu khởi tưởng trên từ ngữ “Phật đạo” thì vẫn là ngôn thuyết hư dối của thức ý. Thế nên cổ đức có niêm “Phật là cục cứt của ông già Thích Ca”.<br />Pháp thoại:<br />1) Huệ Khả hỏi sơ tổ Đạt Ma: - pháp ấn của chư phật con có phần chăng?<br />Tổ trả lời: - Pháp ấn chư phật không từ người khác mà được!<br />2) Khi sơ tổ đạt ma hỏi các đại đệ tử, lần lượt các vị đều trình chỗ đắc. Chỉ đến nhị tổ Huệ Khả bước ra lễ bái, rồi lui về chỗ đứng. sơ Tổ liền thọ ký và trao y bát.<br />Anonymoushttps://www.blogger.com/profile/13764769198147979991noreply@blogger.com