Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2016

Bi sử tân biên (2)

(từ sau cuộc khởi nghĩa bà Trưng bà Triệu đến đại thắng Bạch Đằng Giang của Ngô Quyền. Chấm dứt hơn 1050 năm nô lệ)


Hai nghìn thu trước theo dòng
Vua Trưng Trắc xua áng mây đen, đuổi chó mạ nơi ải bắc,
Triệu Thị Trinh đạp con sóng dữ, chém cá kình ở biển đông,
Giao Chỉ muôn đời hồn thiêng bất khuất.
Cửu Chân ngàn thửo chí khí quật cường.
Thế mà
Có phải chăng giáo dài gươm ngắn
Hay do bởi gông nặng cùm dày
Lưng chẳng cong hình luật lưu đày
Đầu không cúi pháp trường xử trảm
Hay vì áo cơm nhọc nhằn nên mù khuất tất
Hay vì danh phận vất vã mà điếc oan khiên
Hay vì tư điền, nên làm dân mất gốc
Hay vì thê tử, mà uống nước quên nguồn
Hay vì bổng lộc, nhẫn tâm, phường bán nước
Hay vì hư danh, vô phước, lủ buôn nòi
Tự nhận man di mà không dòng giống
Tự nhận mọi rợ mà chẳng tổ tiên
Tự gạt hòa bình mà quên quốc hận
Tự cho thống nhất mà bỏ gia thù
Sao chẳng biết hổ dữ gặp trâu đàn còn chạy
Sao không hay cáo già bị chim chóc phải lui
Nhân luân lấy chí nhân mà thay cường bạo (*)
Thiên đạo đem đại nghĩa để thắng hung tàn (*)
Mai Hắc Đế thù giặc khởi nghĩa hưng binh. Quang Sở Quách kinh tâm mất ngủ.
Bố Cái Đại Vương yêu dân dốc lòng phục quốc. Cao Chính Bình hoảng sợ lìa đời.
Bia sử vinh danh trang hào kiệt.
Miếu đền tôn kính bậc hùng anh.
Dù thế cô, lòng tử sĩ quật cường.
Sợ hiểm địa, chí muôn dân bạc nhược.
Việc lớn không thành, hương nguyền xã tắc, lòng vẫn ngậm ngùi
Đường dài chẳng hết, cổ sự sơn hà, hồn còn phản phất
Khi đại Đường thúc thủ.
Khúc thừa Dụ lên ngai.
Tuy thuần phục bên ngoài.
Trong dụng tâm phục quốc
Ba đời chưa bén gốc
Khúc Thừa Mỹ bại binh
Dương Diên Nghệ bất bình
Đuổi dài Lý Khắc Chính
Ngôi cao trời đoản mệnh
Kiều Công Tiện cướp ngôi
Quyền lợi bả tanh hôi
Ngô Quyền trừ phản tặc
Bão giông từ phương bắc
Hán chủ cử hùng binh.
Cờ hồng chật đất, người ngựa dập dồn, hung hăng tiến bước.
Chiêng trống dậy trời, giáo gươm tua tủa, nhung nhúc vào nam.
Ruộng vườn dẩm nát, nhà cháy từng hàng, tung hoành ngạo nghễ, sóng vỡ đá trơ.
Sông núi ngả nghiêng, tro dồn mấy lớp, ngang dọc thênh thang, trăng tan đầm lạnh.
Đồng bào qua cơn mộng mị, lòng nao nao nhắc nhau: liều chết nối chí ông cha.
Dân tộc thôi giấc mơ màng, lòng thắp thỏm bên nhau: xả thân vì đời con cháu.
Cụ già lụm cụm nhóm bếp khuya, thân gầy nhợt nhạt.
Trẻ thơ lấm lem ôm chân mẹ, mắt sáng long lanh
Cỏ lá quê hương mặt trời không ngủ
Búa rìu trăm chốn tinh tú chẳng yên
Thân trai kéo gỗ vai trần
Phận gái nắm cơm tóc cuốn
Tên ngắn thay giáo dài
Tre già thay gươm bén
Thế rồi: hoảng loạn đau thương, lửa khói bốc cao che lấp cả bầu trời…
Cuộc chiến điên cuồng tuồng khốc liệt
Thánh nhân kinh sợ cảnh điêu tàn.
Hoằng Tháo tự kiêu mất đầu Nam hán.
Ngô Quyền thao lược nhú cọc Bạch đằng.
Hán chủ căm hận về Phiên Ngung, tuyên dương công trạng tướng sĩ hy sinh. Lễ tạ đất trời, thảo phạt Nam man đại thắng.
Ngô Vương hân hoan đến Cổ Loa, bố cáo giang sơn cháu con gìn giữ. Chung lưng dân nước, dựng xây Âu lạc thịnh cường.
Chấp bút sử xanh, non sông vĩnh cửu.
Định khuôn cương kỷ, dân tộc trường tồn.
Từ đây kết thúc ngàn năm kiếp đời nô lệ.
Từ đây khởi đầu vạn thửo khát vọng tự do.
Đất Việt xưa đã về tay cố chủ
Dân Nam cũ được sống kiếp con người.
Dạy rằng:
Hèn với giặc, dối trá sử xanh, mị dân ái quốc, đất nước diệt vong
Ác với dân, uế nhơ tôn miếu, tuyệt gốc vong gia, quê hương suy bại.
Bạch đằng giang xưa cũ
Biển tràn gió lộng cánh buồm căng
Hào khí hồn thiêng sóng bạch Đằng
Tắc nghẽn xác thù ngăn mấy khúc
Đứt lìa thây giặc chất bao tầng
Mở mang sông núi người khai phá
Quét sạch đất trời lưới bủa giăng
Xã tắc Ngô Quyền nào riêng giữ
Đinh Lê Lý dưới một vầng trăng
Nhìn tận mặt:
Dân có giàu là tận trung báo quốc
Dân đói nghèo là bất nghĩa vong gia.
Bạo chúa lấp vùi nguồn dân chủ
Quan tham nhổ bật gốc nhân quyền
_ _ _ _ _
(*) Trích Bình Ngô Đại cáo của cụ Nguyễn Trãi .

Thứ Ba, 19 tháng 1, 2016

Bi sử tân biên (1)

(thời lập quốc theo huyền sử và thời hơn ngàn năm nô lệ)


Theo sông suối nước vốn từ nguồn

Hợp trời đất cây không lìa cội

Như Đại Việt trời nam một cõi

Muôn đời xuân dòng dõi Lạc Long

Ngàn năm nước chảy về đông

Trang sử máu một lòng gìn giữ

Từ buổi sơ khai, năm ngàn năm tìm cội

Suốt thời huyền sử, muôn vạn dặm về nam

Dân Văn Lang hay đoàn người việt cổ

Nước Xích Quỷ hay hương cố tiên rồng

Sông giang tử thắt lòng

Sương mù quá vãng, dã thú gầm gào, đồng khô lúa oằn xơ xác

Trăng cũ di ngôn, tiền nhân gồng gánh, rừng hoang chân bước lạc loài

Thân già vùi ngoài sườn núi. Gay gắt ánh mặt trời.

Xác trẻ chìm đáy dòng sông. Xót xa lòng mẫu tử

Giáo mác theo chân đoàn viễn xứ

Cung tên mất dấu chiếc thuyền nan

Dựng quê hương từ ải Nam Quan

Xuôi dân nước đến dòng Bến Hải

Dưa hấu chí trai An Tiêm đỏ lòng say trái

Bánh chưng trung hiếu Tiết Liêu xanh lá thảo lòng

Thế mà quá ngàn năm:

Hán vũ Đế, thông dâm Cù Thị.

Triệu Minh Vương, tiếp ấn Lữ Gia.

Gươm Tô Định, giấc mộng Nam Kha

Trống Trưng Vương, tre già Phù Đổng

Hận lòng ngập biển sóng!

Oán khí vọng trời xanh!

Đau lòng thay!

Mỗi gốc tre, mấy lớp phơi xương.

Từng tất đất, bấy ngần vùi xác.

Dọc nam bắc vạc dầu máy chém

Suốt đông tây cá chậu chim lồng

Miệt mài gây tội ác lấp vầng hồng

Dãy dụa chết oán cừu vùi đáy vực

Chôn sống muôn dân, khăn tang khắp nước

Cướp thu lúa gạo, chết đói triệu người

Theo Khổng Mạnh, mà hủy hoại nhân luân

Học Lão Trang, lại phá tan thiên lý

Bọn cướp nước, hô hào gươm chính khí

Lũ buôn nòi, khoác lác chí hùng anh

Giờ sỏi đá cỏ cây còn tanh tưởi

Nay núi rừng sông suối vẫn nhuốc nhơ

Trẻ thơ khóc mẹ, ông chôn cháu, chốn chốn khăn tang

Vợ góa ôm chồng, chị lấp em, nơi nơi gò mả

Cướp thu cả bạc vàng châu báu, chẳng đủ túi tham.

Uống máu tươi con đỏ dân đen, chưa vừa cơn khát.

Chém bé thơ, cưỡng phụ nữ, quân binh quang quác: Chiến tích lẫy lừng

Phá vườn ruộng, đốt núi rừng, cờ xí phất phơ: Uy danh hiển hách.

Thời hỗn mang, mạnh được yếu thua, một bầy dã thú. Đạo đức không tưởng Thuấn Nghiêu

Người mê muội, thắng vua thua giặc, một lủ súc sinh. Hùng tài hoang đường Hán Sở.

Giữa cùm gông, nước mất, bảo ban nguồn cội.

Trong chiến lửa, nhà tan, dạy dỗ sử xanh.

Quê hương là nhà, tổ tiên khai lập!

Nòi giống là sử, con cháu lưu truyền!

Đọc cổ sử vừa mừng vừa giận:

Phù Đổng Thiên Vương, thương dân nước xông pha trận mạc

Mỵ Châu Trọng Thủy, vì tình riêng đổ nát cơ đồ.

Lý nam đế cháu rồng tỉnh giấc

Dạ Trach Vương con Lạc chuyển mình

Kẻ lao dịch, cung tên không từng bắn. Dùng mác dao, xả thân giục giã chiến trường

Người nông phu, gươm giáo chưa từng cầm. Nắm bừa cuốc, tuông máu tràn lan trang sử

Dẫu mù chữ, thì thầm nơi chợ vắng.

Vẫn sáng lòng, sang sảng chốn đầm sâu.