3) Đối tượng giải quyết của Phật
học là ý thức gây rắc rối.
* Niệm: Thế giới vũ trụ qua nhãn
căn và nhãn thức tự sanh một thế giới ảo trong não, cái duy nhất mà con người
cùng mọi loài hàm linh thấy nghe … biết thảy đều trong thế giới ảo này, thảy do
tâm sanh (7 thức) nên gọi là tâm lượng, cũng là pháp giới.
Ngay khi một hình ảnh, một âm thanh
… từ nhãn căn đưa về chính nhãn thức, nhĩ thức… vào tâm lượng thì chính nó là
NIỆM.
Niệm này chẳng thật như ảnh hiện
trong gương, ảnh này không phải là một phần của gương dù ngay lúc ảnh hiện,
càng không phải gương. Nên ảnh này không chân.
Niệm này cũng chẳng hư, vì như
gương hiện ảnh mà chẳng có tâm ý lấy bỏ, tác động. Lại nữa chính nhờ 6 thức này
là chiếc cầu là chỗ diệu dụng của tâm (tâm chẳng đồng vô tri kia). Nếu chính
niệm không hiện thì gọi là lọt vào hầm KHÔNG giải thoát đáng sợ. Người ta hình
dung mắt mù, tai điệc, mất xúc giác, vị giác… mọi giao tiếp với thế giới cắt
tuyệt thì đó trọn không là đạo bồ đề. Đây là chỗ mà thánh nhân chẳng thể im
lặng “trừ tâm chớ trừ cảnh”. Cảnh vốn không lỗi chi do tâm sinh.
Niệm này tạm gọi giống như một
thông tin, giống như một vật trong hư không (vật ví như niệm, hư không ví với
tánh với với tâm). Chẳng vì vật mà hư không tăng giảm, nhơ sạch, thiện ác, ta
người …
Niệm niệm tự nó hiện – dứt (khi vật
đến ảnh hiện, khi vật đi ảnh tự dứt chứ không thể nói là ảnh sinh ảnh diệt).
Bản thân của 6 thức vốn là chiếu
(tạm gọi là hoạt động) ngay cả khi ngủ (nhưng không thể nói thêm các trường
hợp khi mê man, vì nó thuộc lĩnh vực của các nhà khoa học chuyên môn).
Niệm này miễn cưỡng gọi là chơn. Vì
không có mặt của thức thứ bảy là ý tác động (Ý đang nghỉ giải lao vì thức thức
bảy ý có tánh chủ động, động hoặc tịnh nhưng tính chiếu soi của nó trọn không
mất. Chỗ này chỉ có tự chứng mới thấu).
Riêng thức thứ bảy là ý có thể nói
thêm nó duyên với 6 thức trước và duyên cả với thức thứ tám là thức lưu chú
(khi kẻ mê gọi là thức lưu chú, nơi người ngộ gọi là như lai tàng). Nên ngay
khi ngủ say mắt, tai từ thế giới vũ trụ chẳng động Ý vẫn thường xuyên với thức
thứ lưu chú vọng lập và người ta vẫn có những giấc mơ.
Chính bảy thức đều có thể qua chiếu
(chỗ dụng) của nó như nhãn giác, nhĩ giác… qua tánh giác này ta biết được
nó.Nên mọi thứ đều có thể nói như vẽ rắn thêm chân hay nhai hết gừng uống hết
giấm thì được. Chỉ cần thấu bốn câu, đủ ba lời thì chẳng chướng ngại.
Riêng thức thứ tám không thể nói
đến, chẳng có gì để nói ngoài gọi tên là Như Lai tàng tâm.Mở miệng nói về nó
thì đừng mong được mang lông đội sừng mà vô lượng kiếp vào ba đường ác (nói
trước để đừng ai hỏi lung tung, trả lời điên đảo).
* Vọng niệm: Niệm được khoác thêm
tấm áo. Đó là động, tịnh, đẹp xấu, trên dưới, thiện ác, thuận nghịch và dấy lên
những thứ sẽ kết tập vào Như Lai tàng (ví như bụi bám vào gương, gương vẫn
gương bụi vẫn bụi nhưng chính những kết tập này trở thành nghiệp thức) là thiện
ác, đúng sai, thuận nghịch, trước sau, yêu ghét… dấy lên làn sóng tranh đấu.
Thế là chỉ trong vườn bồ đề, chỉ là
ảo ảnh mà xác lập có – không, ngã – phi ngã… và tất cả pháp hiện tiền.
Nguyên lai vô sự, khởi lên sắc – không, có không, ngã – phi
ngã. Thế mới biết chỉ vì thêm (tác ý) mà nơi chơn thành vọng. Vọng đó rõ vốn
nguyên chơn vì ý kia tánh nó duyên theo cảnh, nhưng không thể trụ nơi cảnh. Vì
cảnh không thật có, niệm hiện niệm dứt. tánh của ý là vô trụ, vì nếu ý có tánh
trụ một sắc, một hương, một nơi chốn thì còn gì là tạo tác. Nên tuy mặc áo cho
niệm, áo đó liền dứt, niệm cũng liền dứt tuy chẳng đồng sanh nhưng rõ cùng diệt
(tự dứt chứ không có nghĩa là chết).
Sẵn nói về tánh vô trụ của ý, tánh
hiện rồi tự dứt của niệm đây chính là câu “vô trụ
làm bổn” của lúc tổ Huệ Năng trong Pháp Bảo Đàn kinh.
“Này các thiện tri thức, pháp môn này của tôi, từ xưa đến
nay, (đốn tiệm gì) cũng đều lấy vô niệm làm tông, vô tướng
làm thể, vô trụ làm bổn. Vô tướng có nghĩa là ở trong tướng mà vẫn ly tướng. Vô niệm có
nghĩa là ở trong niệm mà không niệm. Vô trụ tức
là bổn tánh của con người”
Vì niệm tự
hiện tự dứt nên đâu có tự thể (tánh), đã không tự thể thức thứ bảy là ý lại
trên cảnh (ảo ảnh) tác ý thì cũng chịu sinh diệt nên gọi là vọng. Vọng vốn
không thật có, chớ có trừ, chớ có đoạn, chớ có diệt theo nghĩa văn mà lầm lần
lời chư Phật Tổ dạy!
Y kinh lập
nghĩa tam thế Phật oan chính là nghĩa này. Học hiểu sanh kiến giải chính là y
kinh lập nghĩa vậy.
* Vô niệm:
Vọng vốn nguyên chơn, chơn niệm vọng niệm đối đãi thêm bớt chỉ do chấp trước.
Cả hai đều lầm. Người giữ u nhàn, sanh tâm thủ xả, lấy tịnh trừ động (chết cứng),
mê chơn chê vọng, lập thiện bỏ ác… thảy là kẻ ngu. Nếu là hàng sơ cơ chẳng tự
tín bổn tâm một tánh thiên chơn (gã cùng tử trong kinh Pháp Hoa) thì mười năm
hốt phẩn (tu tập giữ giới, lập hạnh, tu hành các thiện pháp) thì được, vì trước
sau cũng sẽ nhận ra con thừa kế cha, cháu thừa đương tổ nghiệp. Vốn là thái tử
dù lưu lạc thì khi về nhà cũng được cha mở đại tiệc ăn mừng (kinh thánh), và
truyền ngôi báu (quả vị Phật).
Hãy nên
nhớ, dù ngu mà là kẻ về nhà (thứ lớp tu chứng) qua nhiều kiếp tiệm tu hay chỉ
trong sát na một niệm biết quay về theo đốn giáo thì cũng chỉ là người thủa
xưa. Cởi bỏ áo ăn xin mặc áo lụa trưởng giả vẫn là con cái nối nghiệp nhà
(tánh).
Vô niệm là
cái gì? Quá mệt với ba mớ lý luận, quá mệt khi dựng lập nghĩa vọng niệm, quá vô
bổ với việc dựng lập nghĩa niệm – chơn niệm. làm gì có chơn có vọng ở đây? Chỉ
một tánh chiếu soi từ chư phật đến chúng sanh, từ tahsnh đến phàm phu trọn
không khác. Chỉ vì dị mới lập đồng, chỉ vì mê mới lập ngộ, chỉ vì tam độc mới
phải chuyển thành tam minh, chỉ vì sáu thức mặc áo lục tặc mới cởi áo tô vẽ lục
minh. Thảy thảy là vì chúng sanh mà lập vạn pháp. Trọn đâu có nghĩa thật! tất
cả chẳng qua con người tự kỷ liền thành hai thứ, chỉ vì nghiệp thức chẳng đồng
mà lập ba thừa.
Chính cái
chẳng tốn chút hơi sức nghĩ ngợi, chẳng có việc vọng hay chơn, nguyên lai vô sự
chính là nghĩa vô niệm (hoàn toàn không phải nghĩa không có niệm nha, không có
niệm chính là đã có niệm rồi vậy). Nghĩa là không tự kỷ thành sự, không sự thì
khỏi tự kỷ thành lý. Chẳng khởi tưởng thêm trên niệm, chẳng biết cái gì là niệm
– vô niệm,khỏe re!
Sẵn đây xin
chú phá nghĩa “sự lý chẳng ngại vẫn còn trong tâm lượng” phải đến “sự sự lý lý
chẳng ngại mới là thiền”.
- Sự lý
chẳng ngại vẫn còn trong tâm lượng: tức là thấy có sự có lý, chẳng đoạn trừ mà
chẳng chướng ngại, còn tâm bất động chẳng vin theo, gọi là cõi phật bất động
(Bất động địa) chỉ5 hàng Bồ tát bát địa.
- Sự sự lý
lý chẳng ngại mới là thiền: Cái này thì mỗi người tự liễu nghĩa chỉ xin trích
công án của thiền sư Khắc Cần Phật Quả (nối pháp Thiền sư Diễn ở Ngũ Tổ):
Bấy giờ cư sĩ
Trương Vô Tận đang ngụ ở Kinh Nam, dùng đạo học tự ở, ít tiếp xúc với người. Sư
dừng thuyền đến ra mắt ông. Luận về chỉ yếu kinh Hoa Nghiêm, Sư nói: - Cảnh
giới hiện lượng kinh Hoa Nghiêm lý sự toàn chân, ban đầu không nhờ pháp. Sở dĩ
tức một là muôn, rõ muôn là một. Một lại một muôn lại muôn thênh thang không
cùng, tâm Phật chúng sanh ba không sai biệt, co duỗi tự tại viên dung không
ngại. Đây tuy lý tột trọn là không gió sóng ầm ầm. Khi ấy Vô Tận bất chợt nhóm
giường.
Sư hỏi: - Đến đây
cùng ý Tổ sư Tây sang là đồng là khác?
Vô Tận đáp: - Đồng.
Sư bảo: - Chẳng
được, không dính dáng.
Vô Tận đổi sắc. Sư
bảo: - Chẳng thấy Vân Môn nói: “núi sông đất liền không một mảy tơ lỗi lầm vẫn
là chuyển cú, thật được chẳng thấy một sắc mới là bán đề, lại phải biết có
hướng thượng mới là thời tiết toàn đề”, Đức Sơn, Lâm Tế há chẳng phải toàn đề
ư?
Vô Tận bèn gật đầu.
Hôm sau lại nói về sự pháp giới lý pháp giới, đến lý sự vô ngại pháp giới, Sư
lại hỏi: - Đây đáng gọi là thiền chưa?
Vô Tận đáp: -
Chính là nói thiền.
Sư cười bảo: -
Chẳng phải, chính là còn trong lượng pháp giới, bởi lượng pháp giới chưa diệt,
nếu đến sự sự vô ngại pháp giới thì lượng pháp giới diệt, mới là nói thiền. Thế
nào là Phật? - Cục cứt khô. Thế nào là Phật? - Ba cân gai. Thế nên Chơn Tịnh có
bài kệ nói: “Sự sự vô ngại, như ý tự
tại, tay cầm đầu heo, miệng tụng tịnh giới, đẩy ra phòng dâm, tiền rượu chưa
trả, chữ thập đầu đường, cởi mở túi vải.”
* Một niệm
trở về đồng như bản đắc:
Niệm trước
làm nhân, niệm sau làm quả. Trước sau thành lập. Đẹp xấu liền sanh yêu ghét lấy
bỏ … nơi biển đại tịch diệt (vô sự) dấy lên tất cả trần lao.
Niệm trước
tuy dứt mà niệm sau liền hiện, chính khoảng giữa là đứt quãng gây trệ nại cho
niệm. Niệm trước niệm sau đều trệ nại. Ngay trên một niệm đứng sửng, niệm sau
chẳng sanh, chính trong khoảng thời gian gọi là sát na (tức khắc, liền khi ấy
ngay khi ấy) gọi là niệm quay về (trong trôi mất). Đó là nghĩa một niệm trở về.
Khi ấy
chẳng thể nói niệm mất, niệm và tánh không khác nhưng hoàn toàn chẳng phải một,
gọi là dung thông. Cái này phải tự chứng mới được, chính khi ấy tự tánh tự
hiện. Mọi ý niệm biến mất, mọi ngôn ngữ suy lường tự dứt.
Cùng tử trở
về, áo rách bương
Chờ con trưởng giả vẫn còn thương
Mười năm
hốt phẩn còn chưa nhận
Thấu thoát,
nghiệp nhà mới đảm đương.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét