Trong đầu kinh thường luôn có nghi
thức niệm (kèm lễ bái) Nam mô A Di Đà Phật.
Trong phép tu thiền, cũng có phương
pháp niệm lục tự Di Đà này. Tùy đương cơ mà lập 2 nghĩa có khác (chỉ là miễn
cưỡng phân biệt pháp và tâm).
Niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật
phải thấu 48 lời nguyện.
Nguyện thứ
1: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi, có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Khi niệm lục tự là lời nguyện trong
đời sống từ bỏ tham lam, ganh ghét, đố kỵ, xúc xiểm, hại người hại vật. Đó là
nhân sanh vào ba đường dữ.
* Khi niệm lục tự, nguyện trừ nơi
tâm vọng, Ba đường ác thảy do tham sân si tu học đối trị (đối trị của tham sân
si là trí huệ và thiền định). Rốt ráo nơi bổn tâm trong sạch và giữ gìn thiện
pháp.
Nguyện thứ
2: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi, sau khi thọ chung, còn trở lại sa vào ba ác đạo, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
* Khi niệm lục tự đã là lời nguyện
hoặc với con cháu, với học trẻ, với người xung quanh hoặc bằng lời nói, hoặc
cách cư xử, hoặc làm gương xa lìa nhân sanh vào ba đường ác.
* Khi niệm lúc tự phát nguyện xem
chính nơi bổn tâm (nghiệp thức) là nhơn sanh tử.
Tu học: Vốn cùng từ lòng đại từ đại
bi của chư Phật, mà do chiêu quả từ nghiệp thức sanh ra yêu con nhiều hơn yêu
trẻ khác, yêu người thân hơn người lạ, cho đến mọi thứ thị phi yêu ghét, lấy bỏ
(thủ xả).
Nguyện thứ
3: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, thân chẳng màu
vàng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự là phát nguyện trong
mọi cư chỉ, hành động đi đứng đều đầy đủ sự thong thả, trang nghiêm, lễ độ,
thân thiện…
* Niệm lục tự là bản nguyện dâng đầy
đủ bảy ném hương cúng dường bảy vì cổ phật. Nhãn, nhĩ, tỷ… ý trong sạch, hồi
hướng về uy nghi của Phật (dù không thanh tịnh).
Nguyện thứ
4: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, thân hình có kẻ
tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự là đã phát nguyện từ
bỏ sự phân biệt kẻ hèn người sang, ngừoi giàu người nghèo. Đối xử đều tôn
trọng, biết lắng nghe…
* Niệm lục tự là phát nguyện đã
thấu do ý thức phân biệt sinh ra yêu ghét, trọng khinh với thế nhân, lại lầm
lỗi cả với chính mình. Lưỡi do phân biệt ngon dở sanh tâm thích ghét, thích
ngon mà sát sanh hại vật, chê dở mà làm điều bất nhân để trốn cái nghèo khó…
Quán xét nơi bổn tâm mình mà trừ lỗi.
Nguyện thứ
5: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng có Túc mạng
thông, ít nhất là biết rõ những việc trăm nghìn ức na do tha kiếp (vô số kiếp)
thời tôi không ở ngôi Chách giác.
* Kính tin nơi lời Thế tôn dạy, vì
tự tạo nghiệp mà luân hồi sinh tử, phát nguyện từ nay hồi hướng về phật đạo thoát
khỏi sanh tử.
* Thấu hiểu chơn chánh nghĩa Túc
mạng thông chẳng phải là thấy nhớ biết vô số kiếp trước. Thấu nghĩa vạn pháp do
thức tâm sanh, sinh tử nối tiếp thảy là mộng không thật có. Nếu có thì mãi luân
hồi, có giải thoát tức là không có sinh tử thật. Sinh tử đã không thật thì
nghĩa giải thoát cũng được giải thoát.
Phát nguyện tu hành kiến tánh, xa
lìa ngôn thuyết, dứt sạch đường tâm. Chính là nghĩa Phật tự hiện tiền.
Nguyện thứ
6: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng đặng Thiên
nhãn thông, ít nhất là thấy rõ trăm nghìn ức na do tha thế giới của chư Phật,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ
7: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng được Thiên
nhĩ thông, ít nhất là nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức
na do tha đức Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ
8: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được Tha
tâm thông, ít nhất là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh, trong trăm
nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ
9: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng đặng thần
túc thông, khoảng một niệm, ít nhất là đi qua khỏi trăm nghìn ức na do tha thế
giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự là phát nguyện hiểu
sinh tử hữu hạn, tất cả vô thường không ra ngoài sinh trụ hoại diệt. Phát nguyện
tu hành xa lìa ác nghiệp, nguyện vào thiện pháp thứ lớp tu chứng, khai mở thiên
nhãn…bước vào Bồ tát đạo, thấu cả tâm nguyện chúng sanh các cõi là nhân luân
hồi sinh tử, cho đến nương được oai thần của Phật dạo khắp cõi nước Phật.
* Niệm lục tự là đã phát nguyện xem
xét nguồn tâm, từ nơi cảnh như huyễn, pháp giới tự tánh thanh tịnh, pháp thế
gian đến pháp xuất thế gian thảy xa lìa, chẳng tham cầu pháp, chẳng tham cầu
Phật, chẳng cầu hiểu biết, chẳng cầu ngũ nhãn (nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn,
pháp nhãn, phật nhãn),… chỉ học xa lìa, chỉ học dứt hết mọi đường tâm
Nguyện thứ
10: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, còn có quan
niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự là biết thân tứ đại
giả tạm, tu ở tâm chẳng tu ở thân, Thân tâm trọn hướng về thiện pháp.
* Niệm lục tự biết thân, tâm thảy
là huyễn. Tâm chẳng là vật gì, tâm không mất tâm, tâm không được tâm. Làm phật
chẳng được tâm kia, làm chúng sanh chẳng mất tâm kia. Thấu tánh giác chính là
chỗ dụng của tâm, qua tánh giác, sống với tánh giác tự tín bổn tâm chẳng đồng
vô tri kia. Chẳng theo thân tứ đại, chẳng theo vọng tâm mà chấp có chấp không.
(đây chính là nghĩa “nguyên lai vô sự”).
Nguyện thứ
11: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng trụ định
tu, nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự là biết tôn kính tam
bảo, tôn kính chư thánh từ A Na Hàm đến A La Hán, tin vào chánh pháp của Phật
tu hành thiền định, gìn giữ giới hạnh. Tin thật tu hành chân chánh sẽ vãng sanh
vào Phật quốc A Di Đà, là đắc quả vị Phật.
* Niệm lục tự biết rõ do vọng tưởng
mà sanh tà kiến có không (bốn câu). Chẳng phế bỏ sự tu hành (tu hành kà lìa co
không), lìa chấp pháp thật có, biết pháp là phương tiện một thời còn chính vẫn
là nơi tâm kia.
Tâm sanh thì vạn pháp sanh, vạn
pháp có không trở lai trói buộc thành sinh tử luân hồi. Vạn pháp không thật có,
cũng không tác giả, rõ chỉ là chính mình tự trói.
Rốt ráo xem xét trừ tâm mình, trọn
không cầu chứng quả vị thánh, chẳng cầu diệt độ, chẳng cầu chánh đẳng chánh
giác. Chỉ một tâm trong sạch (chính tâm trong sạch, chính tâm không này mới
thật là chơn Phật).
Nguyện thứ
12: Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhất cũng chiếu thấu
trăm nghìn na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự là lòng kính tin
chánh pháp của Như lai luôn có, chỉ do mình thiếu lòng tin. Kính tin sức hộ
niệm của chư Phật luôn đầy đủ (ba thời Chánh, Tượng, Mạt pháp).
* Do vọng tâm mà che mất phật tánh,
dù chưa triệt ngộ cũng chẳng sanh tâm vội vàng, chẳng sanh tâm chê bỏ thế gian,
chẳng sanh tà kiến Phật là thanh tịnh, chúng sanh là nhơ uế, chánh tín mình là
con Phật (kinh Pháp Hoa: gã cùng tử, ba cổ xe trâu, dê…, con bị bệnh cha giả
đưa tin cha đã mất) chắc chắn thừa đương tổ nghiệp. Ba thời chánh pháp; tượng
pháp; mạt pháp chẳng khác chỉ do tâm phân biệt.
Nguyện thứ
13: Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhất cũng đến trăm nghìn
na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Tin chắc quyết nơi nước Phật Di
Đà, thọ mạng dài lâu và được lòng từ, lòng khoan nhẫn và sự dạy dỗ của Phật là
vô cùng. Bất cứ ai dù là phúc nghiêp nhỏ nhất vào cõi nước Phật A Di Đà vẫn thọ
mạng hữu hạn cũng là lâu xa vô cùng tận và sẽ viên mãn thọ mạng vô hạn do
nguyện lực của Phật.
*
Chánh tín thế giới ba ngàn, cõi nước nào cũng chỉ là bóng dáng của cảnh.
Từ địa ngục đến cõi nước Phật đều tùy duyên thọ sanh, hết duyên thì lìa chẳng
do Phật khác mà thay đổi.
Lìa tham cầu được vãng sanh vào cõi
nước hữu hạn hay vô hạn, vì vô hạn cũng chỉ là đối trị của hữu hạn, nơi cõi
Phật chân thật là Phật tâm không có việc hữu hạn hay vô hạn. Đó mới là cõi nước
Phật A Di Đà. Nguyện xét tự tâm tam độc tham sân si do thức, ý mống khởi. Phát
nguyện tẩy trừ, trước thì như người chăn trâu, tỉnh lực nếu trâu phạm lúa người
(mống khởi) thì nắm mũi kéo lại (chính là khi niệm). Sau như người vô sự coi
con trâu, dù ăn lúa mạ người cũng chỉ xem, khi xem trâu liền thôi ăn lúa gọi là
vô niệm.
Nguyện thứ
14: Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh Văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm
biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong
trăm nghìn kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự Di Đà là hồi hướng
vào Thanh Văn thừa. Thanh Văn là chỉ hàng tăng chúng tiệm tu, họ một lòng kính
Phật nhưng chưa tự tín tâm mình, y theo giáo điển tu hành. Trong kinh Phật đã
thọ ký tất cả đều đắc quả chánh đẳng chánh giác, không thể nghi ngờ.
Đây là giềng mối lưu truyền giữ gìn
phật đạo. Lòng biết chắc quyết tất cả chúng sanh hồi hướng Phật đạo.
* Niệm lục tự Di Đà phải thấu lý:
Bích Chi Phật là là quả vị Phật của Thanh Văn thừa nhưng chưa rốt ráo. Nhờ công
phu tu hành nhiều kiếp, giới hạnh, thiền định … hỗ trợ chánh pháp. Nói chung là
có tu có chứng (quả vị Phật thì chẳng không, mà Phật thì bất khả đắc) cùng Phật
thừa – nhất thừa – Bồ Đề Tâm – Phât tâm thì chẳng phải.
Đã thấu nghĩa kinh văn, pháp chỉ là
phương tiện. Chỉ cái sai cái mê lầm của chúng sanh, là phương tiện.
Mượn phương tiện nhất thời thì được
mà lòng trọn không mảy may hệ niệm tham cầu. Đã không hệ niệm tham cầu không
cầu biết số thanh văn trong cõi nước Phật.
Nguyện thứ
15: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, thọ mạng còn
hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự Di Đà là đã tin chắc
khi vãng sanh cõi nước Phật thoát khỏi sinh bệnh lão tử. Tiếp tục tu hành rồi
phát bổn nguyện độ tất cả chúng sanh đều vào Phật đạo.
* Niệm lục tự Di Đà là lìa xa thọ
mạng hư dối, tùy theo nơi tâm mình phát bổn nguyện dù sanh ở bất kỳ cõi nước
nào vẫn tu hành theo nhất thừa, phát bồ đề tâm.
Phát bồ đề tâm là nguyện không
chứng, không đắc gì cả, không cầu hiểu cầu biết, chỉ quay về làm sạch bổn tâm,
tức là trừ sạch vọng tưởng nơi chính mình. Ngoài ra không thêm gì cả (miễn
cưỡng gọi là bớt, tức là xả).
Nguyện thứ
16: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, còn có người
nghe danh từ bất thiện thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
* Niệm lục tự Di Đà là phát nguyện
mọi thời không phạm lời ác. Thà không nói, chứ nói không tổn thương bất kỳ ai.
Luôn lễ độ, luôn cầu phúc cho mọi người mọi loài, lời nói ôn tồn, nếu được luôn
tán thán Phật đạo.
* Niệm lục tự Di Đà là biết rõ danh
tướng thảy do vọng tưởng nương nơi cảnh mà sanh. Nếu chẳng vào cảnh hay bị cảnh
trói thì danh tướng trọn không thật có.
Mang thân thì không khỏi dùng danh
(lưu bố tưởng) nhưng không bị tướng trói buộc (điên đảo tưởng). Lời thiện lời
ác thảy là lời tà, phỉ báng hay tán thán thảy là nghiêp khẩu. Chẳng phải không
nói, vì đương cơ thì nói lời tốt đẹp, Nếu trên danh tướng lập sự, trên sự lập
lý thì đó là nghiệp thức, đó là khẩu nghiệp, đó cũng là nghiệp bất thiện.
_ _ _ _ _
(Mừng ngày Chúa giáng sinh. Chú phá
48 lời nguyện của Phật A Di Đà với thành tâm cầu nguyện mọi điều tốt đẹp đến với cô
Miêu người bạn tôi quý mến, đến với cô Trinh với lòng biết ơn và sự kính trọng, cùng
tất cả những người mẹ trên cõi đời. Mẹ là hiện thân lòng yêu thương vô bờ bến
của Thượng đế, Trời Phật, Đức Chúa Trời … luôn che chỡ và chờ đợi con cái sống
trong tình yêu thương của Người).
.
Ta có một chỗ hay
Trả lờiXóaTreo đâu trên đầu núi
Trời soi hoài không sáng
Gió bão cũng chẳng lay
Có con cua đáy biển
Giương càng rõ việc này