Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

Định hụê song tu (phần 2)

Lời lão gàn


Nếu nói về Phật Pháp tức chỉ tuyên nói về thủy giác (cái biết ban đầu) vậy đâu là khởi thủy (lúc ban đầu) và đâu là thời gian bản giác (tánh biết của tâm) khi chưa duyên theo bên ngoài mà cấu nhiễm (trước vụ nổ bigbang)? Từ lúc trước big bang 3000 thế giới tan vỡ thành 1 cục (dù ở dang thức nào) trở về trước, lúc ấy lại là cái giác gì? Nếu lại có một cõi nào chẳng dính dáng vũ trụ lại thành truyện thần thoại không thể y cứ. Nên nếu khởi tưởng về Phật pháp thì Phật cũng chẳng có lưỡi, chẳng có chúng sanh để nghe.
Vậy chỉ nói về bản giác, bản giác tức chẳng mất thật chẳng cấu nhiễm nơi chúng sanh, bản giác tức chẳng thêm chẳng tịnh nơi chư Phật. Bản giác tức diệu dụng nơi chư Phật Tổ, bản giác tức chỗ hành nơi mọi chúng sanh.
Đã mang thân vào ba cõi tức đã cấu nhiễm nơi pháp, dù nhiễm bên pháp úê hay tịnh thảy vẫn thuộc về mê (ngoại lệ Bồ tát do thân ý sanh thị hiện nơi ba cõi nhưng cũng chẳng thuyết Phật pháp vì làm gì có lý duyên khởi) nếu đã theo duyên mà dựng lập pháp thảy thuộc về pháp nhập thế - xuất thế đâu phải Phật pháp, vẫn dùng ý ngôn diễn bày tức thuộc mê để chúng sanh có thể thấy nghe, hội (khai thị ngộ nhập)
Nói đến định hụê song tu của chư Phật Tổ và cổ Đức thảy không thể được. Vì sao vì mở miệng vẫn mượn ngôn thuyết. Miễn cưỡng bảo định hụê song tu của Phật Tổ thuộc ngộ đã là không cho phép. Định hụê song tu nói được tức thuộc mê. Mê ngộ đồng nguồn nhưng chớ bảo là một, nói một chẳng cho hà huống nói hai ba.
Nếu đã hỏi đã nói “định hụê song tu” tức thuộc về trần cấu (cấu nhiễm từ tiền trần của chúng sanh, tức thuộc mê) nên pháp tu định hụê sẽ là pháp tu “trần cấu” tức thuộc về mê. Thuộc về mê tức là trói buộc chẳng phải đạo giải thoát của Thế tôn, cùng Phật pháp trọn không dính dáng. Đâu không nghe Thế tôn bảo “nếu nói Phật thuyết pháp là phỉ báng Phật, nếu nói pháp không do Phật thuyết là phỉ báng Pháp”. Nói thẳng ra Thế tôn thật chưa từng nói một chữ. Phật pháp đâu có cảnh tướng gì để mà thuyết, đâu có ý ngôn mà mở lời.
Phàm có diễn thuyết mà hiểu đều thuộc về tình thức. Từ sau Thế tôn, chư Tổ chỉ biết thận trọng khi tiếp dẫn độ sanh, đem lời dẹp lời, lấy lý đuổi lý. Vừa gặp Đức Sơn liền đánh, đâu có chỗ cho kẻ vào cửa Thiền tông móng khởi vọng niệm, gặp Lâm Tế liền hét đã đẩy người tiến tu đến chỗ cao tột cùng không mê chẳng ngộ, đâu có chỗ cho người tìm kiếm, đâu có chỗ cho người tìm diệu nghĩa thù thắng. Thế nhưng 10 bệnh thiền na của kinh Thủ Lăng Nghiêm như thuốc chữa bệnh lại thành dây trói buộc ba thừa vĩnh kiếp luân hồi, 25 chủng tánh nêu ở kinh Viên Giác lại thành xích xiềng khi lại chấp đó là pháp tu chứng với quán chỉ thiền. Lầm chấp phương tiện thành cứu cánh. Cứu cánh thế nào? Thủy giác tức là tối thắng. Thủy giác là cái gì? Lìa ba cõi thì đâu là sắc hóa thân của Như lai hà huống có chúng sanh lấy gì để tuyên thuyết!
Vậy Thế tôn dạy cái gì nếu không nói về về bản giác, nói về Phật tâm. Tâm chẳng thấy (thể) nhưng tánh thì diệu (dụng), tánh ở đâu? nơi tánh có thể thấy qua 7 chỗ diệu. thấy biết, nghe biết, ngửi biết …. Nếu chẳng qua kiến văn giác tri (thấy nghe …biết) tức chôn vùi tánh giác nơi đoạn diệt thì vĩnh kiếp tự giam trong hang không giải thoát ghê sợ.
Nhưng lìa ba cõi tánh giác lại ở đâu? Có đồng có dị với tánh giác nơi ba cõi? Như mặt trời kia không có tâm chiếu mà chiếu, mặt trời như tâm, chiếu là tánh, nhưng không tâm chiếu mà vẫn chiếu. Tánh giác nơi ba cõi thì thế giới đầy mắt, vậy lìa ba cõi tánh giác cũng chẳng hư hao. Chỉ vì không cảnh nên không thấy tánh cũng như chẳng có người cầu thấy tánh.
Tánh không là chẳng nương gá vật, không tánh là lìa cảnh quên tâm. Không tánh vì chẳng có dụng nên nói không tánh, còn gọi là niết bàn, là bồ đề chứ không phải nghĩa không có tánh.
Phật Tổ dù trên cảnh hay không cảnh chẳng sanh tâm đồng dị, chẳng lập tên, trên cảnh chẳng lập sự thì đương nhiên làm gì có lý rõ ràng không tánh. Chúng sanh trên cảnh lập đồng dị, có không, lập danh, trên sự lập lý mà theo tình thức tự mê lấy chính mình mà chẳng thấy tánh không rỗng rãng, ví như người thấy vật mà quên mất khoảng không.
Vậy nếu tâm vin theo cảnh thì tánh giác ở đâu? Đâu thể bảo là tánh giác bị diệt. Vì tánh vốn là chẳng tịnh hay động. Động tịnh thảy thuộc về danh tướng về ý niệm. Nếu tánh giác mà tịnh thì đồng vô tri kia! Tánh giác mà động thì bao giờ thôi dứt!
Nơi ý ngôn có thể tạm nói động tịnh thảy thuộc về dụng của tánh giác. Kia như đứa trẻ đói khóc Như lai lại chẳng nghe chẳng thấy chẳng hành sự hay sao? Tánh giác thật chẳng đồng vô tri kia. Một tên cướp trong lúc quẩn tri giết hết người này đến kẻ khác, bậc chân tu khoanh tay làm người tốt cho tên cuồng đồ sát hại mọi người và cả mình hay sao? Tánh giác chẳng đồng vô tri kia. Tánh giác là thật có chẳng đồng nghĩa có không của ý niệm. Nhưng tánh giác đó nơi chư Phật và chúng sanh vốn không khác (chớ bảo đồng), nhưng do lòng từ và do tình thức mà làm ra khác.
Tánh giác ví như mặt trời chiếu nếu chui vào hang hốc thì chẳng thấy sáng, đâu thể nói không có mặt trời. Cùng là mắt do mắt cha mẹ sanh mà nhìn hay đeo kính nhìn liền thành khác. Nơi cảnh đâu có diễn ra giống hay khác.
Nơi cảnh cái mà người nhận được chỉ là tướng (mềm, cúng, xa gần, tròn méo, đen trắng, đục trong…) chứ chính nơi vật nó nào mang TÁNH mềm cứng … Thảy thuộc về tình thức ý niệm của con người vọng tưởng. Cho đến những gì thấy nghe vẫn chỉ là những thứ diễn ra trong não người (qua cơ chế các dây thần kinh và não tái tạo lại hình ảnh thế giới) như hình như gương chứ nào phải thế giới thực (tạm gọi). Trên thế giới ảo lại móng khởi tri giải hiẻu biết thì tất cả những tri giải đó đồng với lông rùa sừng thỏ.
Nhưng nếu quay lưng lại lại phủ nhận hay đoạn diệt cảnh (trong thế giới ảo của não) lại khóa mất tánh giác, hãy nhớ tâm kia tánh kia chẳng đồng vô tri. Bỏ tánh giác là bỏ chỗ diệu dụng của bản tâm. Chẳng bảo đoạn diệt cảnh mà chớ để cảnh kéo lôi trói buộc. Không vin theo cảnh, không duyên theo cảnh khỏi lập kiến giải, khỏi móng khởi hiểu biết thì thôi, chỉ bảo một chữ THÔI mà từ thời Thế tôn tại thế đến nay vẫn hiếm hoi người làm được. Quả thà chạy như ngựa, thà ngọ ngoậy như con khỉ lại khó hơn chẳng làm gì cả!
Phật pháp vốn chẳng có lý có sự gì khả gì lập ngoài bản tâm, ba cõi chẳng ba cõi chẳng hề thành có thành không. Tánh giác diệu dụng nơi ba cõi liền thành vạn pháp, một tình thức một vọng niệm chẳng sanh vạn pháp không lỗi. nhơn nơi ngã – phi ngã (ta và thế giới) vọng lập liền có ba thừa mà vạn pháp như huyễn. Nếu nói chơn pháp thì thế tôn cũng không lưỡi, nếu có pháp để tu hành thảy thuộc về quyền lập, chẳng phải chơn, tất cả pháp đó theo duyên mà sanh diệt, mọi quả tam thừa vẫn là sinh tử.
Chẳng có pháp nào khả dĩ có thể đắc, vì tất cả pháp có thể học hiểu thảy là hư dối. chẳng có niết bàn để vào, vì nơi nào để có cái niết bàn cho chư Phật chui vào đó.
Phật bất khả đắc và quả vị Phật thì chẳng không. Phật tức phật tâm, ai có bị mất đâu mà cần đắc nếu đắc lại thành Phật đắc Phật, quả vị Phật tức pháp trần cấu tu hành mà an lập, có nhân sao tránh khỏi quả!
Nếu chấp vào quả vị thì rõ ràng khó tránh 10 bệnh thiền na và chỉ là quanh quẩn 25 thứ lớp bồ tát ra vào sanh tử nơi thế giớiba ngàn .
Chẳng có cái mẹ gì để hiểu để biết, nghỉ ngơi đi đừng khởi tâm khởi trí có mệt nhọc, đừng nắm thì thôi đâu cần buông nhưng vì 2 lý do nên nên hụê mạng NHư lai hiểm tợ trứng chồng.
1) Thà bảo chạy loạn, thà làm (do tập nhiễm) lại được, chứ bảo thôi lại không được.
2) Do bọn ma mị dối mình dối người nhất định bảo phải tu hành, phải cung hành những nghi lễ tôn giáo, sáng quay về nam vỗ đít ba cái, chiều quay mặt bắc tru rống như chó bò, phải có các câu chú bí mật, phải giữ tất cả hạnh, phải hành tất cả pháp thiện mới được. Lý lẽ khôn khéo rối mù khiến mọi người đời học được, hiểu được hành được mới chấp nhận.
Nơi thế gian vô tri mà đạo vẫn khắp, núi chẳng tự cao mà cao, vực chẳng có ý thấp mà thấp, từ đất đen cây cỏ xanh tươi, hạt nảy mầm ra hoa kết trái, con thỏ con hươu ăn cỏ, con sói con beo ăn thịt. Trên trời chim, mặt đất thú dưới nước cá.
Vạn pháp tung hoành đâu do học hiểu, đói con chó con mắt chưa mở còn trườn tìm vú mẹ, con hươu con vừa sanh đã tự cố đứng lên cho đến con chim sẻ liều mình trước miệng rắn mà cố cứu lấy chim non. Con sói giết thỏ mà ăn nào do thù ghét, con hươu đau đớn vật vã thần thức mù mờ kinh hoảng giảy chết nào biết đến hận thù. Vạn pháp đầy đủ nơi mọi loài hàm linh mà tất cả chúng sanh chẳng rõ.
Chỗ diệu dụng mở mắt là thấy, cảnh nào phân xa gần trắng đen. Âm đến thời nghe biết, đâu có tự nói thanh tục. Trăm ngàn mùi quanh mũi, tánh giác nào lấy thơm bỏ thúi… Tánh của bổn tâm đâu đồng vô tri kia tánh giác làu làu, do nơi ý phân biệt lấy bỏ liền thành thiện ác. Nếu chẳng tự mình chướng lấy mình sao lại ham ngon chê dở, đói ăn khát uống sao nhọc tranh lấy tài vật ở đời thích nhà cao cửa rộng ưng sơn hào hải vị mag gây nghiệp tội. Con sói có vì chê cỏ dở không ăn mà thích ăn thịt? Đó là chỗ thành đồng dị (giống và khác) lấp tánh giác và nhận vọng tưởng.
Nếu chẳng nhận ý “không có chỗ cắm mỏ” thì dù bỏ công phu tu tập thảy thuộc ngoại đạo, nếu lại trên ý “dùi châm chẳng phủng” lập thành ý nghĩa để hiểu thì chưa dứt căn trần. Lời lời đặt để mong người dứt đường tâm, nếu người nghe người đọc lại sanh “HIỂU” thì lỗi chính ở người đọc người nghe.
Hãy quay lại chính mình, cha mẹ chưa sanh, chẳng khởi thiện ác thì là cái gì? Chớ đọc kinh ba thừa, chớ cần nghe chữ Phật làm gì, vì đó là thuốc chữa bệnh nhưng lại cũng là độc dược. Thà vĩnh kiếp chẳng từng nghe Phật mà thuận bản tâm sống lại còn hơn. Con cá sống kệ nó, đâu có tâm bắt giết thì cái gì là ác pháp là sát sanh. Có ác pháp mới dựng lập thiện pháp “phóng sanh” hay không sát sanh. Thiện pháp đó là hư dối sao lại nhận! Thà theo bản tâm vốn TỐI THIỆN thì thật chẳng có ác pháp. Ác pháp thật chẳng sanh mới tự rõ thiện pháp (tối thiện – bát nhã ba la mật) chẳng diệt mất vậy!
Bất cứ ai đọc mà tự mình sanh kiến giải đó là tự hại mình chẳng do lỗi người viết. Vì Phật pháp trọn không có gì để nói.
Nếu nói được về “định hụê song tu” tức thuộc mê thì phải rõ cùng Phật pháp trọn không dính dáng.
Nếu Phật bảo “buông xuống đi” mà chẳng xong thì dưới cửa Tổ chỉ cần “chớ nắm”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét