Than ơi! Đạo thiên thừa chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng
nhi ái nhân, sử dân dĩ thời.
(Đạo trời việc trị quốc, làm đúng lời hứa, biết trọng dụng người hiền, phải được lòng dân) (*)
(Đạo trời việc trị quốc, làm đúng lời hứa, biết trọng dụng người hiền, phải được lòng dân) (*)
Thế
nhưng lòng người tham đắm u mê!
Cha
ra sức khơi dòng
Con
nản lòng mất nghiệp
Giặc
thừa cơ uy hiếp
Dân
nối tiếp ra công
Lý
Huệ Tôn vua quan hủ bại
Bọn
gian thần tàn hại muôn dân
Trao
ngôi vua cho Lý Chiêu Hoàng
Trần
Thủ Độ ngang tàng soán nghiệp.
Giông
bão lại về trường oan nghiệt
Triệu
đồng bào đứng dậy diệt thù.
Quân Trần thua Phù lỗ, tướng sĩ đợi
thời cơ
Giặc Nguyên chiếm Thăng Long, quan binh
tìm lương thảo
Đông Bộ Đầu Việt nam đại thắng
Sông Hồng Hà Mông cổ bại binh
Nào
ai quên lời của đức thánh Trần:
“..đến đâu không được nhiễu dân”
“ và phải đồng lòng hết sức đánh giặc,”
“chớ thấy thua mà ngã lòng,”
“chớ thấy được mà tự kiêu,”
“việc quân có luật,”
“phép nước không thân,”
“các ngươi phải giữ” (*)
Thế nên tướng binh về Vạn kiếp, dẫu
mất đầu quyết không hàng giặc.
Thế nên bô lão đến Diên Hồng, xin
liều thân thí mạng đuổi thù.
Thà làm quỷ nước nam. Càn khôn
ngưỡng vọng
Không làm vương đất bắc. Nhật
nguyệt cùng soi
Thoát Hoan chiếm Kì Cấp, ngắm trăng
Quốc Tuấn về Chi lăng, lập ải
Quân Nguyên vào Thăng long, quan
binh đói mệt.
Binh Nam giữ Thanh Hóa, tướng sĩ nức
lòng.
Khí khái thay:
“…Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không
biết lo; trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà
không biết tức, tai nghe nhạc để hiến
ngụy sứ mà không biết căm; . . . khi bấy giờ chẳng những là thái ấp của ta
không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng hết, chẳng những gia quyến của ta bị
đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ,
mà trăm năm về sau tiếng xấu hãy còn mãi mãi, mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng
khỏi mang tiếng nhục….” (*)
Giận dữ mưa nguồn, Hàm
tử kiếp đời sấp ngữa, con sông tức tưởi
vặn mình
Điên cuồng nước lũ,
Chương Dương duyên nghiệp nổi chìm, bờ bãi ngậm ngùi cúi mặt.
Xác người nằm im
quên hai bờ tuyến lửa kêu gào.
Người lính ngủ vùi
thôi một cuộc tử sinh hoảng loạn.
Như bão giông quét
sạch bóng giặc thù. Nơi Tây Kết Toa Đô tử trận.
Như đàn én đậu cành
xuân lê táo.Chốn Thăng Long Nhật Duật đề thơ
Tụng giá hoàn kinh sư
Đoạt
sóc Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu nỗ lực,
Vạn cổ thử gian san. (*)
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu nỗ lực,
Vạn cổ thử gian san. (*)
Bạc áo trận, về
thắp hương cha mẹ
Còng lưng già, khóc
nấm mộ cháu con.
Buộc vết thương mưng mủ gọi về mai hậu
Trên tang tóc quê
hương
Dừng mị dân vĩ đại
Trên đổ nát thê
lương
Chớ hô hào công
trạng.
Ba mươi vạn thiên
binh, phương nam đành gởi xác
Hơn năm trăm thuyền
chiến, đáy nước phải trầm mình.
Cỏ hoa chưa xanh lá
Chiến mã vọng biên
cương
Thiên binh đắc
thắng, Ô mã Nhi phá nát chốn Chiêu Lăng.
Bại tướng thất cơ,
Trần Khánh Dư cướp lương nơi Lục Thủy.
Bạch Đằng Giang, ôi quê hương đất Việt, lại một phen
nghiền nát quân thù.
Xưa tiền nhân trừ
Hán, xót xa đổ nát quê hương
Nay hậu thế đuổi
Nguyên, canh cánh điêu tàn xứ sở.
Gió nước mênh mông,
Ô mã nhi phát lệnh. Chiến thuyền lấp kín mặt sông.
Cọc sắt im lìm,
Tướng Nguyễn Khoái lui quân. Binh phục vây quanh bờ bãi.
Tiếng thét xé không
gian, người buông mưa tên hữu ý.
Bè lau tràn sóng
biếc, lửa cháy rừng giáo vô tình.
Trời đất ngả
nghiêng, kêu gào xé biển. Sinh tử đoạn trường
Thân người gẩy gập,
co giật lìa đời. Trầm luân tang tóc
Long câu mỏi gối, Ô mã Nhi quỳ gối
xin hàng
Thạch mã cuồng chân, Trần Quốc Tuấn
quay đầu dấu lệ
Quân Nguyên nhắm ải bắc, về bổn xứ
thoát thân. Thoát Hoan ống đồng nhấp nhổm.
Vua Việt về kinh sư, thương quê
hương gánh nạn, Quốc Tuấn trống lệnh dập dồn.
Xã tắc
lưỡng hồi lao thạch mã.
Sơn hà thiên cổ điện kim âu. (*)
Chế độ nào cũng mất,
Núi sông ấy mãi còn,
Quan nhũng quốc gia rồi
lụn bại
Dân oan nghiệp đế phải
tiêu vong
Hơn ngàn năm nô lệ, quê
hương xơ xác, mang kiếp nô vong. Tai ương khốc liệt.
Năm thế kỷ chiến
tranh, đất nước hoang tàn, giữ nền độc lập. Trang sử bi hùng.
Là dân Việt đừng quên:
Tội ác giặc Tàu đến
thế thôi
Trải sông suối biển
núi nương đồi
Hành vi nhơ bẩn chưa
từng gớm
Thủ đoạn đê hèn
chẳng lúc thôi
Mõm cáo nhuốt nhơ
còn chửa sạch
Nanh chồn tanh tưởi đã nhe rồi
Ba Tàu muốn diệt hồn thiêng Việt
Xóa sử, dân quên mất giống nòi.
Bài học nhà Trần
Từ Thái tôn nhân từ, chùa Phù Vân thọ giới, ngai vàng chẳng
bẩn áo quân vương
Đến Thánh Tôn thuận thảo, núi Yên Tử tịnh tâm, hình luật không
nhơ trời công lý
Trần Phế Đế nhục chí
Hồ Quí Ly chuyên quyền
Trên triền miên cướp đất
Dưới tất bật đánh người
Biển đông thừa hiểm họa
Biên giới quá tai ương
Dân Oan dường khắp xứ
Quan nhũng đủ ba tầng
Quốc khố vua trống rỗng
Ruộng vườn chúng tiêu điều
Nhân tâm đà chán ghét
Thánh đức lại tung hô
Nhân luân càng băng hoại
Đạo đức đã suy đồi
Thế nên Hồ tặc soán ngôi trời, ngai vàng lơ láo
Thế nên hậu Trần từ nghiệp đế, con trẻ lạc loài
Cảm phục thay cha con
Đặng Dung tận trung báo quốc, tiếng cuốc nay vẫn não nề!
“Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.” (**)
_________
Trích Hịch Tướng Sĩ của đức thánh Trần Hưng Đạo (*) và thơ của Trần Nhân Tông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét