Chơn tánh!
Bao nhiêu kinh điển Thế tôn chỉ
biết tán thán tâm, ngàn thánh ca ngợi thế nhưng lại chẳng thể nói được một lời,
một chữ tâm là cái gì, ra sao.
Nhưng chư Tổ nói về kiến tánh!
Nhưng cũng như tâm, cũng không thể nói tánh ra sao, vì dùng từ ngữ luôn rơi vào
đối đãi phân biệt, chẳng thể nào qua khỏi ngôn thuyết, ý ngữ.
Nếu nói có một pháp, nếu nói có một
huyền nghĩa cho người chính là đổ phân lên đầu người, chính là khoét thịt làm
thương tích. Nếu nghe lấy, nhận lấy một pháp, một nghĩa chẳng khác đem chén báu
hứng chứa lấy cứt! Nói thế lại có thể tin nhận không?
Như người chưa biết bơi vào nước
biển chết (có nồng độ hòa tan muối bảo hòa cao nhất) vẫn cứ nổi, học bơi giỏi
vào dòng nhược thủy (thần thoại, chiếc lông thả vào cũng chìm) lại phải chạy bộ
dưới đáy sông. Dưới nước sao thân có 2 tướng nổi chìm. Chẳng vào nước cái gì là
chìm nổi? nổi chìm không là tánh của thân, cũng không là tánh của nước, nơi
duyên liền thành 2 tướng.
Như mười người đến Đà lạt, mỗi
người tùy cơ cảnh tùy vào bản thân đều có cảm nhận khác nhau, kẻ ở canada thì
bảo Đà lạt hơi nóng, kẻ ở sa mạc thì bảo lạnh, kẻ ở núi rừng thì bảo Đà lạt sao
mà cây cối tiêu điều sơ xác, kẻ tở thành phố lại thấy Đà lạt mộng mơ, kẻ thi sĩ
nhã sĩ hay người nông dân cũng hướng về Đà lạt do cảm nhận và nhu cầu khác
nhau. Nhưng chính bản thân Đà lạt đâu có diễn ra lắm cái đối đãi, có tướng khác
nhau. Thảy do thức ý tại tác vọng khởi.
Mọi người không sao thoát khỏi lưới
ma của vọng tưởng.
Tánh thiên chơn vào cõi trần lao,
cũng như hư không dung chứa muôn vật. Cũng như gương sáng tĩnh lặng diệu dụng
hiện muôn sắc tướng mà nào có làm tánh gương đẹp xấu.
Tánh thiên chơn chẳng đồng vô tri
kia, tuy mang sắc thân tùy thuận phương tiện. Vốn chưa từng có ý giết chóc, cướp
bóc, thu giữ nên tánh thiên chơn rõ nghĩa “ác pháp chẳng sanh”, thấy con cá bơi
đâu có ý câu bắt giết thịt bao giờ.
Tùy thuận nơi sắc thân biết đói
biết lạnh, biết đau đớn về bệnh tật, nên thấy ai bắt chim cá thì nơi bản tánh
thiên chơn tùy thuận liền cứu giúp sinh linh như huyễn nên gọi “thiện pháp
chẳng diệt”.
Nơi tánh thiên chơn không hề mảy
may tư niệm thiện ác. Nếu Thế tôn xả thân thay cho muôn loài chúng sanh, nếu có
mảy may ý niệm thiện thì đó là pháp ta, nói đến nhắc đến là lời tà, dựng lập
thiện pháp là pháp tà.
Phải trái, chánh tà, thiện ác, lấy
bỏ … vốn không trói được tánh thiên chơn kia nên gọi đạo giải thoát mà kỳ thực
chẳng có gì là giải thoát cả, siêu vượt mọi ngôn thuyết vọng tưởng đối đãi.
Thực ra cảnh không có ý trói người,
chỉ có vọng tâm nên tự trói, miễn cưỡng giả lập gọi đạo giải thoát. Tâm – tánh
kia há có thể cột mở được sao? Thế nên nói đạo giải thoát, nói Phật đạo, nói
phật pháp đã là lời miễn cưỡng dối người. Hà huống có một pháp khả đắc, hà
huống có một Phật tâm để đắc.
Nơi nhãn thức thấy biết rõ ràng,
nơi sở đắc là xanh vàng đen trắng xa gần tròn méo . . . nơi tánh thấy chẳng
vàng đen tròn méo. Chỉ nơi sở cấu nhiễm có đen trắng đẹp xấu…
Nơi thân thức chạm biết rõ ràng,
nơi sở đắc là nóng lạnh, cứng mềm, nhầy nhụa trơn láng, đau, thích ghét … Nhưng
nơi tánh biết chẳng bị đau, chẳng bị lạnh chẳng yêu chẳng ghét chẳng lấy chẳng
bỏ. Miễn cưỡng nơi sở giác đau mà tánh (giác) không đau….
Cho đến 7 thức lại cũng như vậy.
Miễn cưỡng dựng lập giác và sở giác
(năng – sở) đã là dựng lập đối đãi phân biệt, gọi là quyền trí, gọi là cửa Phổ
Hiền. Nếu chỉ thấy Phổ Hiền mà chẳng rõ Văn Thù thì đồng ma thuyết. Lại cần rõ
Văn Thù không? Trọn không dấu vết!
Thế tôn chẳng có mật chỉ vì chưa
từng che dấu (vô ngã).
Lại nói 7 thức bất sanh bất diệt,
là chỗ thị hiện của Như Lai Tàng, của Phật tâm, của Phật Tánh, của Niết ban
tâm, của Phật pháp … cũng là miễn cưỡng. 7 thức là vật gì mà là dụng của tâm
(tâm là thể, 7 vị cổ phật là dụng).
Phương tiện nêu bày dựng lập để
chúng sanh tự tin Phật tâm chẳng đồng vô tri kia, chẳng do tạo tác mà thành,
chẳng do học hỏi mà biết, chẳng do công hạnh ba thừa mà thành mà được.
Chánh tín nơi bổn tâm mình một tánh
thiên chơn, do huân tập, người trôi lăn tự xác lập chủng tánh, tự mê nơi như
lai tàng thành thức lưu chú nên chỉ biết trông cậy vào sắc thân, vào tạo tác,
vào ngôn thuyết. Toàn thuộc về năng sở của thức và ý vọng động.
7 thức không lỗi, nên đọc – học –
hiểu chẳng phải không cho, nó là dùng để tiếp dẫn hàng độn căn, nghiệp tạo nặng
nề. Tất cả nghiên cứu, suy tư ra ngữ nghĩa trên giấy thảy chỉ dành cho hàng độn
căn từng chút một tu hành không ngài ý “buông xuống đi”.
Như có người mang vác nặng nề, bảo
y trút bỏ ngay đó tự tại. Ai nghe? Thế là phải bày sáng quay về nam sấp mình
niệm chú a đa a da đà la, dập đầu 3 cái thì bỏ bớt 1 phần y mới chịu tin. Phải
có điều kỳ bí, phải có mật chỉ mới được! Cho đến ngày y bỏ được tất cả liền vô
sự. Quay lại nhìn mới biết tất cả việc hành đạo chỉ là việc làm trong mộng.
Gánh nặng mang vác cùng với thân có gì dính dáng. Nhận ý này được không?
Nếu nhận ý này, vẫn là kẻ mê muội
trên thức và ý chẳng ngoài ngôn thuyết. Vì sao? Vì phật tánh chưa thấy, thì vẫn
là ngôn thuyết.
49 năm cố gắng mấy Thế tôn vẫn chỉ
nhận được các đệ tử tự trói vào ngôn thuyết, may có đại sĩ Ma Ha Ca Diếp cười
vang nơi hội Linh Sơn, chẳng một pháp khả đắc, chẳng một phật để thành, chẳng
có một lý một lý gì học từ Thế tôn nên Thế tôn liền truyền y bát.
A nan đa văn, trí nhớ siêu phàm chỗ
chỗ, lời lời chẳng quên viết lại rất nhiều các đại bản kinh văn, thấu lý rõ ràng
biện thuyết chẳng ngại mà bị Thế tôn quở” ông ngàn ngày học chữ suy nghĩa chẳng
bằng học đạo một ngày” vẫn chỉ là bệnh học – hiểu của hàng học giả.
“Học mà hiểu, hành mà được là kế
sống con nhà quỷ” Tất cả kinh điển đại thừa chỉ vì bầy quỷ học giả mồm mép này
mà chánh pháp nhãn tạng của như lai chỉ còn là danh tướng (ngôn thuyết).
Ngàn xưa đến nay, bao người kính
Phật bỏ thân, lìa cha mẹ, lập hạnh giữ giới cả đời tụng niệm, tu học lại chỉ
làm chúng sanh “hữu tưởng” và “phi tưởng”. Đến cuối đời mật chỉ như lai vẫn bị
ngôn thuyết che mờ như nhìn thế giới qua tấm lụa (lúc ấy chưa có kính mát). Đâm
ra buông trễ, tự nhận tu hành được thọ dụng của bá tánh mà vào thai lừa bụng
ngựa, mang lông đội sừng.
Nếu khi hạ liệt bản thân, với bồ đề
vô thượng không dám mong cầu thì việc thiện (pháp thiện) cứ tu vì nó thuận bản
tánh thiên chơn (Đại từ bi). Một niệm muôn năm (niệm không thể diệt là chơn,
niệm niệm sinh diệt do thức ý là vọng) thì có phần nhẹ nhàng (gọi là tu nhân
thành Phật).
* Xưa ông già Nham Đầu bảo: “Chấp nhận
tức chưa khỏi căn trần, chẳng chấp nhận tức hằng chìm sanh tử.”
Đọc kinh không nên cầu hiểu, chỉ có
thể thấy chứ không có chỗ hiểu. Chỗ hiểu tức là chấp nhận nên gọi chưa
dứt căn trần (6 căn) chẳng khỏi mé thức. Chẳng chấp nhận tức chẳng thấy (kiến
tánh) không khỏi hằng chìm sanh tử.
* Xưa lục tổ bảo Thần Hội “Tôi
thấy, nghĩa là thường thấy lỗi lầm của mình, cho nên bảo là thấy; còn không
thấy, nghĩa là không thấy lỗi lầm của thiên hạ. Cho nên tôi vừa thấy vừa không
thấy…”
Thế nào là thấy lỗi lầm của mình?
Nơi đây cần một chuyển ngữ! Chú phá thì được, chuyển ngữ tự nơi người. Thấy
lỗi lầm tức nơi ngôn thuyết chẳng đúng căn cơ, chẳng hợp thời tiết. Chính là
chỗ đại cơ của Bá Trượng, chỗ đại dụng của sư Hoàng Bá sau này. Còn không thấy
lỗi của thiên hạ thì nơi cảnh lại là lỗi gì mà thấy? Nơi đây cũng cần một
chuyển ngữ.
Tại sao đọc chớ hiểu mà phải thấy?
Hiểu tức chìm đắm trong biển thức ý, thấy tức là mọi ngôn thuyết phương tiện
của chư Phật tổ ba đời thảy từ hông ngực, từ tự tánh thiên chơn lưu xuất, đọc
kinh trước tu sau đối chứng nơi bổn tâm thanh tịnh. Chính khi ấy chẳng bị danh
ngôn dối gạt mà “phải trái mặc tình đè lột”.
Với hàng cư sĩ mắt mù tai điếc tại
gia, chớ chạy cuồng vào chùa lễ bái Phật ngoài mà không lễ bái phật tâm. Cúng
dường chư tăng mà không cúng dường tam bảo (*). Có thể chọn những kinh ít mắc
vào danh từ của Phật học như bộ Pháp Bảo Đàn kinh (Đôn Hoàng Bản) do Thích Mãn
Giác dịch, kinh Kim Cang (Đoàn Trung Còn dịch) và Kinh Pháp Hoa.
Nếu mắt chưa mù, tai chưa điếc muốn
một lúc quét sạch mọi thứ thì có Bá Trượng Quảng lục và ngữ lục do Hoài Hải
viết (Thích Duy Lực dịch), Truyền Tâm Pháp yếu của Hoàng Bá (do Hoài Hải viết
lại, Thích Duy Lực dịch) và kinh Duy Ma Cật (hạ và thượng).
Nếu thật là bậc thượng căn thì khán
một công án!
Tiếc thay! Chỉ rặc một tuồng mồm
mép! Phật pháp chỉ còn là cây cọc cọc cột lừa!
_ _ _ _ _
(*) tam bảo: Phật – pháp - tăng:
- Phật tức tâm nên gọi Phật tâm.
(còn gọi phật tánh)
- Pháp tức tâm nên gọi Phật pháp (thật
trí – Văn Thù).
- Tăng tức là sắc thân (nơi hội đủ
tam thân Phật):
.Thanh tịnh pháp thân Phật: tự tánh
thiên chơn
.Trăm ngàn ức hóa thân Phật: tư
lương ác đến thiện, đều ở ngay chính nơi sắc thân là hóa thân Phật từ chúng
sanh đến thánh.
.Viên mãn báo thân Phật: là niệm
niệm đều thiện lưu xuất từ tự tánh.
Dù nói từ hạng tục gia tai điếc hay
bậc thượng căn thì miễn cưỡng do căn cơ tuy nói có khác mà chơn tánh kia chưa
từng ẩn dấu. Mê không thật có! Có ngộ thì ngộ đó đồng mê. Thật không có cái gì
khả dĩ ngộ, cũng chẳng có cảnh giới nào khác. Ngộ chỉ là thấy bổn tánh vốn dĩ
lặng lẽ vốn có mà thôi! Tánh lặng lẽ này cũng không người che đậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét