Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016

chú phá kinh Duy Ma cật (3)



Hay khéo phân biệt các pháp tướng,
Mà nơi đệ nhất nghĩa chẳng động.
Đối với các pháp được tự tại,

Cho nên đảnh lễ Pháp Vương này.
Thuyết pháp chẳng hữu cũng chẳng vô,
Vì do nhân duyên các pháp sanh.
Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả,
Những nghiệp thiện ác cũng chẳng mất.
1) Hay khéo phân biệt các pháp tướng,
Mà nơi đệ nhất nghĩa chẳng động
Đối với các pháp được tự tại,
Đây gọi là Phật dụng, còn gọi là chánh pháp, tùy bệnh cho thuốc. Nhiều người lầm nghĩa nơi câu “tột không ngã chơn” nên nhận nghĩa “có mà không thật” tự nơi tâm kiến lập không, nơi cảnh biến đổi vọng lập vô thường, vô thường nên vô tánh nên móng khởi nghĩa “không”. Hai câu, phật tâm chẳng đồng vô tri kia, khéo lập phương tiện tùy phương tùy người; câu hai nêu rõ tôn chỉ tuy vạn pháp theo duyên sanh diệt mà nơi đệ nhất nghĩa (tức nói nghĩa chân thật của bổn tâm) chẳng động tức chẳng nhiễm nơi các pháp. Chẳng bị các pháp trói buộc.
Nên nơi Tứ diệu đế, bát chánh đạo, thập nhị nhơn duyên … vốn là pháp giải thoát lại thành trói buộc. Nếu chẳng chín chắn xem lại xem, liền là tà pháp.
2) Cho nên đảnh lễ Pháp Vương này.
Thuyết pháp chẳng hữu cũng chẳng vô,
Vì do nhân duyên các pháp sanh.
Thế nên đảnh lễ là đảnh lễ pháp chân thật kia (phật pháp) còn gọi là pháp vương, tâm pháp chính là vua của các pháp, nơi tâm pháp – trí bát nhã – phật trí – thật trí lưu xuất tất cả vạn pháp.
Pháp mà Thế tôn thuyết chỉ khiến người lìa tứ cú (có, không, chẳng phải có chẳng phải không, vừa có vừa không). Phàm nếu thuyết mà khiến người sanh kiến giải hoặc có, hoặc không… Đó là tà thuyết vì vô cớ trói buộc người nơi pháp. Thật không một pháp khả đắc, thật không một pháp xứng tình.
Đức Sơn niêm với Tuyết Phong: - Tông ta không ngữ cú, không một pháp cho người.
Nên pháp trọn là cởi trói, nên gọi giải thoát. Còn dưới cửa Tổ “trọn không thể nắm, trọn chưa từng bị trói buộc, há cầu giải thoát”.
3) Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả,
Những nghiệp thiện ác cũng chẳng mất.
Vô ngã là pháp vô ngã, nơi tâm không vọng động tưởng sanh các ác kiến: có không, lấy bỏ, thiện ác, … thảy thảy đều từ tâm duyên theo cảnh.
Do duyên nên trên vật thấy sự, trên sự lập lý. Vạn pháp đồng hiện cũng từ duyên sanh. Nhưng ở đây xét có kỷ, chỉ có duyên sanh duyên diệt chứ cảnh, 7 thức, vạn pháp chẳng diệt. Tâm chẳng đồng vô tri kia.
Vô tạo, chỉ nhắc lại “bặt nơi tâm hành”, nơi pháp vốn tự trong sạch (pháp thế gian và tâm pháp) chỉ vì móng khởi kiến giải phân biệt liền thành pháp trần cấu. Một niệm chẳng sanh vạn pháp không lỗi là nghĩa này. Tu hành nếu chấp nơi hạnh thì đó là hạnh sinh diệt, nếu thuận bản tâm thì hạnh không ngằn mé gọi là Phật hạnh. Tu hành nếu chấp vào có phép ngồi thiền “quán tâm, quán tịnh” đó là nơi cảnh dựng lập “không”, dựng lập “tịnh” hư dối.
Bổn tánh vốn tự thiên chơn, chỉ do tâm duyên vọng động chạy theo cảnh liền bị cảnh chuyển. Ôm lấy pháp thì bị pháp chuyển, đọc kinh tìm nghĩa là bị kinh chuyển.
Câu kế, xác lập lại tâm chẳng đồng vô tri kia, nơi Phật dụng chẳng bỏ, chẳng diệt cảnh, chẳng diệt thức mà vào ngu si. Nhân quả rõ ràng, thánh vị chẳng hoại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét